1. Giai đoạn trong những năm 1950 -1960:
– Một số cơ sở nghiên cứu và sản xuất thuộc ngành hoá chất được khôi phục lại hoặc thành lập mới và đã bắt đầu hoạt động có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế ở miền Bắc. Mỏ Apatit Lào Cai đã được khôi phục sản xuất ngay từ năm 1955.
– Năm 1959 đã khởi công xâu dựng Nhà máy Supe phốt phát Lâm Thao – con chim đầu đàn của ngành hoá chất thời kỳ đó.
– Tháng 4/1962, Nhà máy chính thức hoạt động và xuất xưởng những tấn phân lân supe đầu tiên.
Phương hướng phát triển của Công nghiệp hoá chất trong thời kỳ này là:
– Sản xuất phân bón, thuốc trừ sâu phục vụ nông nghiệp.
– Phát triển mạnh vật liệu xây dựng đáp ứng nhu cầu xây dựng.
– Đẩy mạnh sản xuất các sản phẩm phục vụ các ngành kinh tế khác (acqui, hơi kỹ nghệ, gạch chịu lửa v.v…)
– Đáp ứng nhu cầu dân sinh.
Kết quả đạt được:
Trong giai đoạn này, Công nghiệp hoá chất là một trong những ngành công nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao nhất.
Về phân bón, sản lượng 6.000 tấn phốt phát năm 1955, năm 1960 đạt 541,4 nghìn tấn, trong đó apatit là 490 nghìn tấn và phốt phát nghiền là 49,7 nghìn tấn ( tăng hơn 90 lần).
Về xi măng, từ 8,4 nghìn tấn năm 1955, sản lượng năm 1960 đã đạt 407,9 nghìn tấn (tăng gần 50 lần).
Đặc biệt, Công nghiệp hoá chất đã bắt đầu đưa ra thị trường hai mặt hàng tiêu dùng mới là săm lốp xe đạp và đồ dùng bằng nhựa.
Trong bước đầu của nền công nghiệp Việt Nam, Công nghiệp hóa chất tại các địa phương có một vai trò rất quan trọng trong việc đáp ứng yêu cầu về mặt hàng tiêu dùng của nhân dân (xà phòng, thuốc đánh răng, sơn)… Thậm chí 45 tấn thuốc trừ sâu đầu tiên sản xuất tại Việt Nam vào năm 1960 cũng là của công nghiệp hoá chất địa phương.
2. Giai đoạn thời kỳ kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 – 1965)
Đây là thời kỳ mà những kết quả đạt được của Công nghiệp hoá chất chưa lớn.
Riêng Công nghiệp hoá chất tăng gấp 4,62 lần, hơn cả điện lực và cơ khí. Công nghiệp hoá chất chiếm 9,5% giá trị tổng sản lượng toàn ngành công nghiệp.
Trong kỳ kế hoạch 1961 – 1965, hàng loạt nhà máy lớn của Công nghiệp hóa chất như Supe phốt phát Lâm Thao, Hoá chất Việt Trì, Acquy Hải Phòng, Pin Văn Điển, Phân lân nung chảy Văn Điển v.v… đã được xây dựng và nhanh chóng đi vào sản xuất.
Nhờ có 2 nhà máy phân bón, từ năm 1961, nước ta đã sản xuất được phân lân chế biến. Sản lượng phân hoá học trong năm 1964 , năm cao nhất của thời kỳ kế hoạch, là 205,26 nghìn tấn, trong đó supe phốt phát là 135,88 nghìn tấn.
Kết thúc kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, mặc dù chịu nhiều tổn thất trong chiến tranh phá hoại của Mỹ, nhưng Công nghiệp hóa chất và vật liệu xây dựng vẫn tiếp tục phát triển, chiếm vị trí quan trọng trong công nghiệp. Cơ cấu ngành cũng có nhiều thay đổi. Lĩnh vực sản xuất tăng nhanh. Chúng ta đã có Công nghiệp hoá chất vô cơ cơ bản và năng lượng hoá học.
Đã hình thành ba khu công nghiệp hoá chất ở : Hà Nội, Vĩnh Phú (Việt Trì – Lâm Thao) và Hải Phòng.
3. Giai đoạn thời kỳ chống chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ (1965 – 1975)
Đây cũng là thời kỳ ngành hoá chất có một bước biến chuyển mới. Ngày 19 tháng 8 năm 1969, Nhà nước đã quyết định thành lập Tổng cục Hóa chất trực thuộc Chính phủ, đồng thời đây cũng là thời kỳ (trong vòng 10 năm) mà các cơ sở Công nghiệp hoá chất của miền Bắc phải vừa chiến đấu vừa sản xuất. Mặc dù gặp rất nhiều khó khăn nhưng nhìn chung Công nghiệp hoá chất vẫn bảo đảm được tốc độ tăng trưởng. Giá trị tổng sản lượng năm 1975 tăng gấp 1,65 lần so với năm 1965.
Sản phẩm quan trọng nhất trong thời kỳ này là phân lân.
Trong 20 năm xây dựng, phát triển, từ năm 1975, Công nghiệp hoá chất đã có bước phát triển lớn.
Về cơ cấu ngành, đã hình thành nhiều thành phần kinh tế – kỹ thuật thiết yếu trong nền kinh tế quốc dân:
– Công nghiệp sản xuất phân bón, thuốc trừ dịch hại và các hoá chất phục vụ nông nghiệp khác;
– Công nghiệp mỏ phục vụ ngành hoá chất;
– Công nghiệp cao su;
– Công nghiệp hoá chất cơ bản;
– Công nghiệp pin – acquy;
– Công nghiệp xà phòng…
Trong Công nghiệp hoá chất còn có các phân ngành sau:
– Silicat (chủ yếu sản xuất vật liệu xây dựng, xi măng), vật liệu chịu lửa, các mặt hàng gốm sứ, thuỷ tinh dùng trong công nghiệp và dân dụng,v.v…Trong thời kỳ này Công nghiệp hoá chất tại các doanh nghiệp nhà nước là trụ cột của ngành. Có thể nói Công nghiệp hoá chất là một trong những ngành đã thể hiện rõ rệt tính chủ đạo của công nghiệp quốc doanh. Các doanh nghiệp nhà nước đã bảo đảm được gần 70% giá trị tổng sản lượng toàn ngành.
– Các hóa chất cơ bản như xút (NaOH), clo (cho công nghiệp giấy, công nghiệp thực phẩm và xử lý nước), axit sunfuric ( cho công nghiệp acquy,sản xuất phèn) v.v… cũng hoàn toàn do các cơ sở quốc doanh đảm nhiệm. Tất cả các hoá chất và sản phẩm liên quan đến hoá chất cần thiết cho quốc phòng đều do Tổng cục Hóa chất sản xuất theo kế hoạch đặc biệt nhằm đáp ứng các yêu cầu cụ thể.
– Ngoài sản xuất, khu vực nghiên cứu thiết kế cũng được hình thành. Trong ngành có hai cơ quan khoa học là Viện Hoá học Công nghiệp (thành lập năm 1955) Và Viện Thiết kế Hoá chất (thành lập năm 1967).
Ngành có một trường đào tạo kỹ thuật viên, hai trường đào tạo công nhân kỹ thuật và một trường quản lý kinh tế.
4. Giai đoạn phát triển 1976-1985 của ngành hóa chất công nghiệp
Giai đoạn kế hoạch 5 năm (1976 – 1980)
Đất nước thống nhất và giải phóng miền Nam, chúng tiếp quản được hàng loạt xí nghiệp công nghiệp, trong đó có các xí nghiệp hóa chất, mà phần lớn là loại nhỏ.
Công nghiệp hoá chất thuộc loại có tỷ trọng đầu tư cao nhất của ngành công nghiệp miền Nam và tập trung chủ yếu vào các sản phẩm tiêu dùng. Các sản phẩm như săm lốp xe đạp và xe máy, pin – ăcquy, sơn, xà phòng, thuốc đánh răng, chất tẩy rửa và nhất là hàng nhựa là các sản phẩm có sản lượng lớn và khá phong phú về chủng loại, nhưng lĩnh vực phân bón chỉ có phân trộn và photphorit nghiền với sản lượng thấp.
Phương hướng phát triển trong giai đoạn này:
Một mặt, sau khi cải tạo công thương nghiệp ở miền Nam, chúng ta đã sáp nhập nhiều công ty nhỏ và thành lập nhiều công ty thuộc những phân ngành kinh tế kỹ thuật khác nhau, có quy mô lớn hơn.
Tại miền Bắc nhiều nhà máy hoá chất cũng được cải tạo, mở rộng hoặc xây dựng mới.
Mục tiêu đặt ra đạt 1,3 triệu tấn phân hóa học đề ra cho kế hoạch 5 năm. Chúng ta đã nhanh chóng xây dựng nhiều cơ sở nghiền apatit để dùng trực tiếp làm phân bón. Kết quả là từ năm 1976 đến 1980 số xí nghiệp của Tổng cục Hóa chất đã tăng liên tục từ 71 lên 111, tăng gần 1,6 lần.
Tuy nhiên, do tình hình thế giới và khu vực rất phức tạp, việc Mỹ và một số nước phương tây thi hành chính sách cấm vận đối với nước ta, mà từ năm 1978 sản lượng toàn ngành công nghiệp giảm sút nhanh.
Kết quả thực hiện:
Do sự giảm sút về nguyên liệu nhập khẩu, nên chúng ta đã gặp rất nhiều khó khăn. Trong năm 1980 chỉ số phát triển của Công nghiệp hoá chất trung ương đã giảm, chỉ còn bằng 94% so với năm 1976.
Giai đoạn kế hoạch 5 năm (1981 – 1985)
Công nghiệp hóa chất là một trong số những ngành có tốc độ tăng trưởng cao trong kỳ kế hoạch này. Giá trị tổng sản lượng năm 1985 gấp 1,8 lần năm 1980. Công nghiệp hóa chất cũng là một trong những ngành chiếm tỷ trọng cao nhất trong ngành công nghiệp, tới 10,6% vào năm 1985.
Trong kỳ kế hoạch này, nhờ Nhà máy Phân lân Ninh Bình đi vào sản xuất và Nhà máy Supe phốt phát Lâm Thao tiếp tục mở rộng, đưa công suất lên 300 nghìn tấn/năm, nên sản lượng phân lân chế biến năm 1985 đã tăng gấp 1,5 lần so với năm 1980. Sản lượng thuốc trừ sâu cũng tăng gấp 2,2 lần. Các sản phẩm chủ yếu khác như các hóa chất vô cơ cơ bản và nhất là các sản phẩm tiêu dùng thiết yếu của ngành như săm lốp xe đạp, pin, chất tẩy rửa v.v… đều tăng sản lượng và số mặt hàng. Tuy nhiên, các sản phẩm phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu đều bị giảm. Điển hình là săm lốp ôtô, thuốc đánh răng và xà phòng thơm.
5. Giai đoạn phát triển của ngành hóa chất công nghiệp trong thời kỳ đổi mới (từ 1986 đến nay)
Giai đoạn kế hoạch 5 năm (1986 – 1990)
Trong kỳ này, ngoài việc điều chỉnh mục tiêu theo hướng đẩy mạnh đầu tư cho ba chương trình về lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Đảng và Nhà nước đã có những quyết sách:
– Khuyến khích đầu tư nước ngoài; khuyến khích các thành phần kinh tế cùng nhau phát triển, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo.
– Giao cho các xí nghiệp quốc doanh quyền tự chủ kinh doanh.
– Công nghiệp hóa chất thuộc những ngành có tốc độ tăng trưởng cao. Bình quân trong 3 năm đầu, tốc độ tăng trưởng khoảng 6% mỗi năm.
– Nhà nước tiếp tục xoá bỏ các tàn dư của cơ chế quản lý cũ (cơ chế hai giá, ba kế hoạch…) chuyển hẳn sang cơ chế phù hợp với quy luật kinh tế thị trường thì sản lượng của nhiều ngành công nghiệp, trong đó có ngành công nghiệp hóa chất bị giảm sút.
– Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chủ yếu đầu tư sản xuất các mặt hàng tiêu dùng như: xà phòng, thuốc đánh răng, săm lốp xe đạp… Ở thời điểm này các doanh nghiệp tư nhân chiếm tỉ trọng rất thấp trong cơ cấu giá trị tổng sản lượng của ngành, khoảng 0,56%.
6. Giai đoạn thời kỳ kế hoạch 5 năm (1991 – 1995)
Đây là giai đoạn đầu tiên theo cơ chế giao quyền tự chủ hoàn toàn cho các doanh nghiệp. Bộ Công nghiệp nặng được thành lập lại, trên cơ sở cơ chế quản lý mới. Nhà nước đã thành lập hai Tổng công ty quản lý các doanh nghiệp thuộc Tổng cục Hóa chất.
Ngành công nghiệp hóa chất đạt tốc độ tăng trưởng cao:
– Bình quân đạt mức gần 20% trong suốt thời kỳ kế hoạch.
– Công nghiệp địa phương chiếm tỉ trọng xấp xỉ 57% tổng giá trị sản lượng toàn ngành;
– Trong đó các doanh nghiệp quốc doanh địa phương khoảng 31%;
– Khu vực ngoài quốc doanh đã phát triển nhanh, chiếm tỷ trọng tới trên 1/4 giá trị tổng sản lượng năm 1995 của toàn ngành.
Mặc dù khu vực ngoài quốc doanh phát triển mạnh, đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nhưng các doanh nghiệp quốc doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo, chiếm tỷ trọng 74,4%, trong đó hai Tổng công ty Hóa chất chiếm 43%.
Khu vực công nghiệp địa phương trong sản xuất với số lượng doanh nghiệp còn rất ít, nhưng cũng có một vị trí đáng kể trong ngành. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 1995 của các liên doanh đã chiếm 13,6% giá trị toàn ngành.
7. Giai đoạn năm 1995 -2006
Ngày 20/12/1995, tại Quyết định số 835/TTg, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định thành lập Tổng công ty Hóa chất Việt Nam. Trên cơ sở hợp nhất Tổng công ty Phân bón và Hóa chất cơ bản với Tổng công ty Hóa chất công nghiệp và Hóa chất tiêu dùng. Tổng công ty Hóa chất Việt Nam là một trong 18 Tổng công ty hoạt động theo mô hình Tổng công ty 91. Tổng công ty Hóa chất Việt Nam ra đời, đã kế thừa toàn bộ cơ sở vật chất kỹ thuật, lao động và thành tích của ngành hóa chất trước đây.
Tại thời điểm thành lập, Tổng công ty Hóa chất Việt Nam có 41 đơn vị thành viên, 2 đơn vị phụ thuộc và 6 đơn vị sự nghiệp. Với các ngành nghề sản xuất kinh doanh chủ yếu như phân bón các loại hóa chất cơ bản, săm lốp ôtô, xe máy, xe đạp và cao su kỹ thuật, sản phẩm điện hóa, chất tẩy rửa, khai thác mỏ…
8. Giai đoạn từ 2006 – 2009
Ngày 24 tháng 4 năm 2006, Thủ tướng ra Quyết định số 89/2006/QĐ-TTg chuyển Tổng công ty Hóa chất Việt Nam sang hoạt động theo mô hình Công ty mẹ – Công ty con và Quyết định số 90/2006/QĐ-TTg về việc thành lập Công ty mẹ – Tổng công ty Hóa chất Việt Nam.
Tại thời điểm thành lập, Công ty mẹ – Tổng công ty Hóa chất Việt Nam có 23 công ty con. Trong đó có 2 công ty TNHH, 11 công ty liên kết; 4 công ty liên doanh và 2 đơn vị sự nghiệp.
Giai đoạn này, Tổng Công ty Hóa chất Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc:
– Tăng nhanh năng lực sản xuất, kinh doanh, bảo đảm cung ứng hàng hoá thiết yếu cho nền kinh tế.
– Tạo nguồn thu cho ngân sách;
– Giữ vai trò chủ đạo trong ngành sản xuất phân bón và một số lĩnh vực then chốt.
– Quy mô vốn sở hữu của Tổng Công ty từ 2006 đã tăng lên đáng kể.
– Năm 2006, tổng vốn chủ sở hữu của Tổng Công ty là 4.342 tỷ đồng. Cuối năm 2008 đã đạt 6.818 tỷ đồng, tăng 56,79;
Những năm gần đây, Tổng Công ty có những phát triển vượt bậc và toàn diện trên các mặt sản xuất, kinh doanh, đầu tư xây dựng cơ bản, lao động sáng tạo, ứng dụng thành tựu KHCN, bảo vệ môi trường, công tác xã hội từ thiện ….
– Tổng Công ty đã góp phần đảm bảo an ninh lương thực. Mỗi năm cung cấp khoảng 1,4 triệu tấn phân chứa lân gồm supe photphat và phân lân nung chảy. Khoảng 1,4 – 1,6 triệu tấn phân NPK các loại và 150 nghìn tấn phân đạm.
– Ngoài phân bón, các ngành như cao su (săm lốp ôtô, xe đạp, xe máy). Chất giặt rửa, các sản phẩm điện hóa (pin, ắcquy), hoá chất cơ bản (xút, axít …) cũng được phát triển.
– Trong 10 năm 1998-2008, tốc độ tăng trưởng bình quân của Tổng Công ty là 11,13%, chiếm tỷ trọng 10%, giữ vị trí đáng kể trong toàn ngành công nghiệp.
Ngày 23/12/2009, Thủ tướng ban hành Quyết định số 2180 TTg thành lập Tập đoàn Hóa chất Việt Nam (VINACHEM).Tập đoàn Hóa chất Việt Nam là doanh nghiệp đa sở hữu. Trong đó sở hữu nhà nước là chi phối, hoạt động theo mô hình Công ty mẹ – Công ty con.
Tại thời điểm thành lập, Tập đoàn có 10 công ty con do tập đoàn nắm giữ 100% vốn điều lệ, 17 công ty con do tập đoàn nắm giữ trên 50% vốn điều lệ khi cổ phần hóa, 16 công ty con do tập đoàn nắm giữ dưới 50% vốn điều lệ, 1 Viện nghiên cứu, 1 Trường cao đẳng. Ngành kinh doanh chính là sản xuất kinh doanh phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, hóa chất cơ bản, sản phẩm cao su, pin và ắc quy, chất giặt rửa và mỹ phẩm, khí công nghiệp, khai khoáng, sản phẩm hóa dầu, hóa dược…
Sự ra đời của Tập đoàn Hóa chất Việt Nam là một dấu ấn quan trọng. Tập đoàn sẽ tiếp tục vai trò nòng cốt trong việc phát triển các ngành trong lĩnh vực hóa chất. Đối với từng sản phẩm sẽ có bước đi, lộ trình cụ thể trong việc chiếm lĩnh thị trường nội địa và mở rộng thị trường xuất khẩu. Đồng thời, Tập đoàn sẽ tiếp tục đầu tư các dự án góp phần bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, đảm bảo nhu cầu phân bón (lân, đạm – urê, NPK) trong nước. Phát triển nhanh mạnh hóa chất cơ bản, xúc tiến nhanh cơ sở sản xuất sản phẩm hóa dầu, hóa dược. Đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm hóa chất trên cơ sở tăng sức cạnh tranh của các sản phẩm.